Tại khu vực miền Bắc, giá heo hơi hôm nay tăng từ 1.000 - 3000 đồng/kg ở nhiều nơi và dao động trong khoảng 59.000 - 64.000 đồng/kg. Cùng tăng 3.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại Bắc Giang, Hưng Yên lần lượt ở mức 63.000 đồng/kg và 64.000 đồng/kg. Ghi nhận mức tăng 2.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại Hà Nội, Lào Cai lần lượt ở mức 62.000 đồng/kg và 59.000 đồng/kg. Còn tại Thái Bình, sau khi tăng 1.000 đồng/kg, hiện giá heo hơi ở mức 63.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá, trong khi đó, Yên Bái, Nam Định, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình và Tuyên Quang chững lại ở mốc 60.000 đồng/kg.
Giá heo hơi hôm nay 4/10: Ghi nhận mức tăng cao nhất 3.000 đồng/kg
Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, giá heo hơi hôm nay biến động tăng nhẹ và dao động trong khoảng 56.000 - 61.000 đồng/kg. Theo đó, tại Quảng Nam, giá heo hơi hôm nay tăng 1.000 đồng/kg trong hôm nay, hiện đang thu mua với giá 61.000 đồng/kg. Mức giá này cũng được ghi nhận tại Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi. Các địa phương khác trong khu vực không ghi nhận sự biến động về giá, trong đó, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định và Khánh Hòa đang đứng ở mức 60.000 đồng/kg. Mức giá thấp nhất khu vực đang là 56.000 đồng/kg, ghi nhận tại tỉnh Đắk Lắk.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi hôm nay tăng từ 1.000 - 2.000 đồng/kg ở một vài nơi và dao động trong khoảng 53.000 - 61.000 đồng/kg. Trong đó, cùng tăng 1.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại tỉnh Sóc Trăng, Bến Tre, Cà Mau lần lượt đứng ở mức đồng/kg lên khoảng 54.000 đồng/kg, 55.000 đồng/kg và 58.000 đồng/kg. Còn tại Kiên Giang, sau khi tăng 2.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay ở mức 53.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá, trong đó, Long An tiếp tục thu mua với giá 61.000 đồng/kg, cao nhất khu vực.
Bảng giá heo hơi hôm nay 4/10 tại các địa phương có sự điều chỉnh
Khu vực |
Địa phương |
Giá (đồng) |
Tăng/giảm (đồng) |
Miền Bắc |
Bắc Giang |
63.000 |
+3.000 |
Lào Cai |
59.000 |
+2.000 |
|
Hưng Yên |
64.000 |
+3.000 |
|
Thái Bình |
63.000 |
+1.000 |
|
Hà Nội |
62.000 |
+2.000 |
|
Miền Trung – Tây Nguyên |
Quảng Nam |
61.000 |
+1.000 |
Miền Nam |
Kiên Giang |
53.000 |
+2.000 |
Cà Mau |
58.000 |
+1.000 |
|
Bến Tre |
55.000 |
+1.000 |
|
Sóc Trăng |
54.000 |
+1.000 |
Ông Tống Xuân Chinh - Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) -nhận định, năm nay là một năm rất nóng đối với ngành chăn nuôi, nhất là liên quan đến vấn đề giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã chi gần 6,6 tỷ USD để nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Trong đó, kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2021; nhập khẩu các nguyên liệu chính như ngô, đậu tương cho sản xuất thức ăn chăn nuôi khoảng 3 tỷ USD.
Riêng với mặt hàng ngô, 8 tháng đầu năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 5,8 triệu tấn, tương đương gần 2,1 tỷ USD, giảm 16% về lượng nhưng tăng 7,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. Bình quân giá ngô nhập khẩu ở mức 355 USD/tấn, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2021 do căng thẳng Nga – Ukraine khiến chuỗi cung ứng ngũ cốc bị xáo trộn. Đến nay, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi vẫn giữ ở mức cao, việc giảm giá là điều rất khó.