Tại khu vực miền Bắc, giá heo hơi hôm nay bật tăng trở lại và dao động trong khoảng từ 59.000 – 62.000 đồng/kg. Trong đó, giá heo hơi tại Yên Bái, Lào Cai lên ngưỡng 60.000 đồng/kg, tăng 8.000 đồng/kg so với ngày trước đó; còn tại Bắc Giang và Hưng Yên lên mức 62.000 đồng/kg sau khi tăng từ 9.000 - 10.000 đồng/kg so với ngày hôm qua.
Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, giá heo hơi hôm nay cũng bật tăng trở lại và dao động trong khoảng từ 56.000 - 61.000 đồng/kg. Trong đó, sau khi tăng 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại Bình Thuận hiện đứng ở mức 56.000 đồng/kg; giá heo hơi tại Lâm Đồng đứng ở mức 58.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg so với ngày trước đó. Còn tại Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi cùng ghi nhận mức giá 61.000 đồng/kg, tăng 9.000 đồng/kg so với ngày trươc đó.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi hôm nay dao động trong khoảng từ 57.000 - 63.000 đồng/kg. Theo đó, giá heo hơi hôm nay tại Đồng Nai đứng ở mức 58.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg; giá heo hơi tại Hậu Giang 57.000 đồng/kg, tăng 4.000 đồng/kg so với ngày trước đó. Giá heo hơi Cần Thơ 58.000 đồng/kg; giá heo hơi Long An 63.000 đồng/kg sau khi tăng lần lượt từ 6.000 - 11.000 đồng/kg.
Biến động tăng/giảm giá heo hơi ngày 19/11 tại các khu vực
Khu vực |
Địa phương |
Mức giá |
Tăng/giảm |
Miền Bắc
|
Yên Bái |
60.000 |
+8.000 |
Lào Cai |
60.000 |
+8.000 |
|
Bắc Giang |
62.000 |
+9.000 |
|
Hưng Yên |
62.000 |
+10.000 |
|
Miền Trung – Tây Nguyên |
Bình Thuận |
56.000 |
+1.000 |
Lâm Đồng |
58.000 |
+5.000 |
|
Thanh Hóa |
61.000 |
+9.000 |
|
Nghệ An |
61.000 |
+9.000 |
|
Hà Tĩnh |
61.000 |
+9.000 |
|
Quảng Ngãi |
61.000 |
_+9.000 |
|
Miền Nam |
Đồng Nai |
58.000 |
+5.000 |
Hậu Giang |
57.000 |
+4.000 |
|
Cần Thơ |
58.000 |
+6.000 |
|
Long An |
63.000 |
+11.000 |
Hiện ngành chăn nuôi phát triển ổn định nhiều năm qua, góp phần đảm bảo sinh kế cho gần 10 triệu nông hộ và cung ứng đủ thịt, trứng, sữa cho gần 100 triệu người dân và khoảng 17 triệu khách du lịch mỗi năm.
Cụ thể, trong giai đoạn 2010-2021, sản lượng thịt các loại tăng 1,7 lần (đạt 6,7 triệu tấn), trứng tăng 2,7 lần (17,5 tỷ quả), sữa tươi tăng 4 lần (1,2 triệu tấn sữa), thức ăn chăn nuôi công nghiệp tăng hơn 2 lần (đạt 21,5 triệu tấn).
Dù đạt những thành tựu đáng ghi nhận, ngành chăn nuôi hiện đối mặt 7 thách thức gồm: Thiên tai và biến đổi khí hậu, dịch bệnh truyền nhiễm, ô nhiễm môi trường, thiếu quỹ đất cho phát triển chăn nuôi.
Bên cạnh đó là cạnh tranh về chất lượng và giá cả sản phẩm trong nước với hàng nhập khẩu. Chi phí sản xuất chăn nuôi tăng cao do lạm phát và giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng. Liên kết chuỗi yếu, kết nối giữa sản xuất và thị trường còn hạn chế.
Để hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi, Dự thảo Nghị định quy định về chính sách đầu tư hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi đang được Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) xây dựng và lấy ý kiến của các Bộ, ban ngành.
Với 5 chương, 19 điều tập trung vào 2 nhóm chính sách: Đầu tư hỗ trợ phát triển chăn nuôi; Nâng cao hiệu quả chăn nuôi dự thảo nghị định đã đề cập đến một số "điểm nghẽn" của chăn nuôi trong nước. Tuy nhiên, do chăn nuôi hiện có nhiều nghị định, thông tư, đồng thời tỷ lệ số nông hộ nhỏ lẻ còn khá nhiều, các chuyên gia cho rằng tổ biên tập dự thảo nghị định phải cân nhắc và chọn trúng vấn đề, thay vì đầu tư dàn trải. Như vậy, nghị định mới sẽ tạo được cơ chế mới, đặc thù, hiệu lực và có tính đột phá cho ngành chăn nuôi.